Lễ húy kỵ lần thứ 22 Cố Hòa Thượng Thích Viên Thành tại chùa Thầy

Sáng ngày 27/5/2024 (tức ngày 20/4 Giáp Thìn), Đạo Tràng Tịnh Tông Học Hội Việt Nam do Đại Đức Thích Giác Hạnh làm trưởng đoàn, cùng có Chư Tăng Ni, Phật tử đang tu tập tại các ngôi chùa trong hệ thống chùa của Đạo Tràng TT HHVN cùng trở về sơn môn chùa Thầy tham dự lễ húy kỵ lần thứ 22 của cố Viện chủ chùa Hương, trụ trì chùa Thầy – Hòa thượng Thích Viên Thành (20/4).

Hòa thượng Thích Viên Thành, thế danh Phùng Xuân Đào, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1950 (mồng 1 tháng 6 Canh Dần) tại làng Thượng Cát, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội. Thân phụ là cụ ông Phùng Xuân Chỉ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Thìn.

Khi ngài chưa tròn một tuổi thì thân phụ đã sớm quy Tây, ngài chỉ còn dựa vào tình thương yêu của thân mẫu và sự đùm bọc của bà nội cùng bà con lối xóm. Từng bước, cảnh sinh ly tử biệt ấy đã làm cho ngài sớm nhận ra lẽ vô thường của kiếp người, ngài quyết xuất gia cầu đạo vào năm 12 tuổi. Năm 15 tuổi, ngài được Sư tổ Thích Thanh Chân, động chủ Hương Tích, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, thu nhận làm đệ tử.

Năm 19 tuổi, ngài được Hòa thượng bản sư cho thụ giới Sa di. Sau khi thụ giới Sa di, ngài càng tỏ ra tinh tiến hành đạo nên năm 1972, ngài được đăng đàn thụ Cụ túc, viên mãn Tam đàn giới pháp taị Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Hà Sơn Bình.

Nhận thấy ngài có chí cầu học, siêng năng đèn sách, Hòa thượng bản sư kỳ vọng ngài sẽ là Pháp khí trong đạo sau này, nên đã cho phép ngài xuống núi, theo học lớp Trung cấp Phật học tại chùa Quảng Bá và Quán Sứ-Hà Nội, niên khóa 1973 -1976. Trong thời gian theo học tại chùa Quán Sứ, ngài không những xuất sắc về mặt học vấn mà còn tinh nghiêm về mặt giới luật nên khi tốt nghiệp, được Giáo hội tuyển chọn vào Trường Cao cấp Phật học Việt Nam (nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội) Khóa I, niên khóa 1981-1985.

Năm 1985, tốt nghiệp Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, ngài trở về chốn tổ phụng sự Tam bảo và bắt đầu dấn thân vào con đường hoằng dương Phật pháp.

Ngài luôn quan tâm đến việc đào tạo, giáo dục thế hệ Tăng ni trẻ, coi đó là việc báo đáp thâm ân của chư Phật một cách thiết thực nhất. Vì vậy, ngoài việc tiếp tăng độ chúng, ngài còn làm giảng sư của Trường Trung cấp Phật học cũng như Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội.

Năm 1984, ngay khi còn theo học Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, đáp lời thỉnh cầu tha thiết của chính quyền và nhân dân địa phương, Hòa thượng về nhận chùa Thầy – Thánh tích của Ngài Từ Đạo Hạnh.

Năm 1985, với giới đức trang nghiêm và hạnh nguyện từ bi vô ngại, ngài đã được Sư tổ, tức Hòa thượng Thích Thanh Chân, tin tưởng trao truyền kế đăng Động chủ Hương Tích.

Năm 1987, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Việt Nam toàn quốc kỳ III, ngài được tấn phong giáo phẩm Thượng tọa và được suy cử vào Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Tại Đại hội kỳ III Tỉnh hội Phật giáo Hà Tây, ngài được bầu là Phó Ban Trị sự, kiêm Chánh Thư ký Tỉnh hội.

Để tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, năm 1991, ngài đã cùng Chư tôn đức trong Ban Trị sự thành lập Trường Trung cấp Phật học tỉnh Hà Tây và ngài được giao trọng trách làm Phó Hiệu trưởng Thường trực của trường.

Trong các Đại giới đàn được tổ chức tại Hà Tây, ngài đều được cung thỉnh làm Thầy Tôn chứng và Thầy Yết ma.

Năm 1993, ngài được bầu làm Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đồng thời làm Phó Ban Từ thiện Trung ương và Uỷ viên Ban Hoằng pháp Trung ương.

Năm 1998, chùa Thầy được chọn làm Đạo tràng An cư kiết hạ của tỉnh Hà Tây, Hòa thượng được suy tôn ngôi Đường chủ của trường hạ cho đến khi viên tịch.

Từ năm 1998, ngài được suy cử chức vụ Phó Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng Ban Trị sự tỉnh Phú Thọ.

Để báo đáp công ơn Thầy tổ và trang nghiêm ngôi Tam bảo, cùng với cương vị trụ trì chùa Hương, ngài đã đảm nhận chức vụ Trưởng Ban Xây dựng và tôn tạo chùa Hương vào tháng 3 năm 1989 (năm 1947 chùa Thiên Trù đã bị giặc Pháp phá hủy hoàn toàn). Ngài đã cùng với các cơ quan hữu quan, Phật tử và nhân dân địa phương trùng tu ngôi Đại hùng bảo điện, Tổ đường, Hương Thủy điện v.v… Chỉ hơn 10 năm, quần thể di tích danh lam chùa Hương được uy nghiêm tráng lệ như ngày nay phần lớn là nhờ công sức của ngài.

Ngài còn kiêm nhiệm trụ trì chùa Thầy, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Nơi đây, Hòa thượng đã tu bổ nhiều hạng mục công trình, duy trì phát triển Thánh tích chùa Thầy ngày một trang nghiêm hơn. Cũng chính nơi đây với tâm nguyện hành trì Mật giáo, ngài đã khơi sáng lại ngọn đèn truyền thừa Mật tông vốn đã được khởi lập bởi đức Thánh tổ Từ Đạo Hạnh cách đây gần một nghìn năm về trước.

Trong sự nghiệp Đạo pháp, ngài đã khắc ghi bằng những dấu ấn trải qua:

– Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

– Phó Ban Giáo dục Tăng Ni, Phó Ban Văn hóa, Phó Ban Từ thiện xã hội Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

– Phó Trưởng Ban Thường trực Tỉnh hội Phật giáo Hà Tây.

– Trưởng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Phú Thọ.

– Phó Hiệu trưởng Thường trực Trường Trung cấp Phật học tỉnh Hà Tây.

– Đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh Hà Tây.

– Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà Tây.

– Trụ trì chùa Hương và chùa Thầy, tỉnh Hà Tây.

Suốt đời, ngài luôn tâm niệm: Chỉ có trí tuệ mới là sự nghiệp chân chính của người xuất gia, nên khi về đến Phương trượng là ngài tập trung vào việc nghiên cứu, trước tác, dịch thuật. Ngoài các bài viết được đăng trên các báo, tạp chí, ngài còn để lại nhiều tác phẩm, dịch phẩm như sau: Đại bi Nghi Quỹ, Chuẩn đề Nghi Quỹ, Lục độ Ta Ra, Du già Nghi Quỹ, Lục đạo tập, Truy môn cảnh huấn, Bút ký bên cửa trúc, Khóa lễ Phổ Môn, Lược sử các tông phái Phật giáo…

Tuy phải điều hành Phật sự tại hai đại danh lam là chùa Hương và chùa Thầy, lại nhận lĩnh các chức vụ của Phật giáo tỉnh nhà cũng như của Giáo hội, song ngài còn tích cực tham gia các hoạt động xã hội tại địa phương. Ngài đã từng tham gia đại biểu Hội đồng Nhân dân xã Hương Sơn, Hội đồng Nhân dân huyện Mỹ Đức và từ năm 1994, ngài là Đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh khóa V, VI và VII. Vào đời bằng hạnh nguyện Bồ tát, ngài đã tham gia tích cực các công tác từ thiện xã hội để đem lại an lạc, hạnh phúc cho nhân sinh.

Do những công lao đóng góp cho đạo pháp và dân tộc, ngài đã được Nhà nước và Giáo hội tặng thưởng nhiều bằng khen và giấy khen như: Huân chương Lao động hạng ba, Huy chương Vì sự nghiệp Đại đoàn kết dân tộc, Huy chương Vì sự nghiệp bảo tồn văn hóa dân tộc, Huy chương Vì sự nghiệp nhân đạo,…

Hòa thượng thuận lẽ vô thường trả tấm thân tứ đại lại cho trần gian mộng ảo để trở về thế giới vô tung bất sinh bất diệt vào lúc 18 giờ 40 phút ngày 31 tháng 5 năm 2002 (tức ngày 20 tháng 4 năm Nhâm Ngọ), trụ thế năm 53 năm, hạ lạp 32 năm.

Năm mươi ba năm tuy ngắn ngủi, nhưng ngài đã sống một cách trọn vẹn, đầy ý nghĩa, đã hiến trọn cả cuộc đời cho đạo pháp, cho dân tộc. Hạnh nguyện vô ngã, vị tha của ngài luôn luôn là tấm gương sáng, là ngọn tuệ đăng chiếu soi cho Tăng ni, Phật tử hôm nay và mãi mãi về sau.

Một số hình ảnh ghi nhận được:

 

Phật Sự Tản Viên tổng hợp

Loading

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Shares